Thứ Ba, 15 tháng 11, 2011

Kinh tế Việt Nam

1. “Sóng ngầm” thị trường tiền tệ
Trước tình thế khó khăn thanh khoản, một số NHTM không chỉ “liều mạng” vượt trần lãi suất huy động tiền đồng mà còn áp dụng nhiều “chiêu” kỹ thuật mới để giải quyết thanh khoản trước mắt.
Dòng vốn huy động tiền đồng của hệ thống NHTM vẫn sụt giảm mạnh dù thị trường vàng đã có dấu hiệu hạ nhiệt.
Vốn đã khan lại không thông
Chị Thanh Vân ở quận Tân Bình, TPHCM, cho biết cuối tuần qua một nhân viên của NH V. có hội sở chính ở Hà Nội đã gọi điện mời chào gửi tiền với lãi suất cao.
Theo đó, nếu gửi 1 tỷ đồng trở lên có thể thỏa thuận lãi suất lên đến 18%/năm, trên sổ tiết kiệm vẫn ghi 14%/năm nhưng NH trả trước tiền mặt 4%, còn lại lãi suất 14%/năm sẽ trả vào ngày đáo hạn sổ tiết kiệm.
Chị V. từng là khách hàng tiền gửi của NH này nên dựa vào danh sách khách hàng cũ nhân viên NH liên hệ để mời chào.
Thực tế không chỉ NH V., một số NHTM nhỏ ở TPHCM cũng đang chạy đua hút vốn cuối năm thông qua hàng loạt chương trình khuyến mại, mang lại cơ hội trúng thưởng khá cao cho người gửi tiền số lượng lớn.
Dù các NHTM này đều cho rằng cộng dồn lãi suất và khuyến mại họ không vượt trần, nhưng với cơ cấu các giải thưởng đa dạng khó có thể xác định được mức lãi suất thực khách hàng nhận được.
Theo Trưởng phòng nguồn vốn một NH nhỏ, dù biết rằng lách lãi suất đang bị NHNN cấm và sẽ xử lý mạnh tay, nhưng trong tình thế thanh khoản căng thẳng hiện nay NH cũng phải “đánh quả” liều trên thị trường tiền gửi.
Cuối tuần qua, NHNN cho biết tổng số tiền gửi của khách hàng tại các tổ chức tín dụng đến ngày 20-10 ước giảm 0,74% so với tháng trước. Trong đó tiền gửi VNĐ giảm 1,29%, tiền gửi ngoại tệ tăng 1,73%.

điều này cho thấy dòng vốn tiền đồng đang thực sự căng thẳng. Một lãnh đạo NH cho biết cuối năm nhu cầu vốn vay tiền đồng rất cao nhưng NH phải ngừng cho vay vì vốn huy động sụt giảm. Hiện nay, vay liên NH kỳ hạn 1 tháng ít nhất 25%/năm, nếu cho vay ra nền kinh tế lãi suất ít nhất 27-28%/năm.
Như vậy, cửa vay lãi suất rẻ cuối năm không thể có. Mặc dù lạm phát giảm nhưng lãi suất cho vay không thể giảm vì dòng vốn đã khan lại không thông. Bởi thị trường liên NH hiện nay không khác nào bị “cô lập”, chủ yếu dành cho một số NHTM lớn và NHTM bậc trung vay. Điều này làm cho các NHTM nhỏ đã thiếu vốn càng thiếu hơn.

“Diễn biến thị trường liên NH thời gian qua có thể không như mong muốn của NHNN. Nhưng người nhịn đói 1-2 ngày thì được, nếu nhịn quá lâu thì sẽ bệnh nặng. NHTM nhỏ thời điểm này cũng vậy, nếu để quá lâu mà không can thiệp kịp thời, rủi ro thanh khoản càng lớn. Lúc đó NHNN sẽ phải tốn nhiều vốn hơn để can thiệp” - vị lãnh đạo này nói.
Khát VNĐ vòng qua vàng
Hiện nay, huy động chứng chỉ vàng kỳ hạn ngắn dưới 1 năm không phải xin phép NHNN, nhưng đến ngày 1-5-2012 các NHTM sẽ phải dừng huy động hình thức này. Tuy nhiên, nhiều NHTM vẫn huy động chứng chỉ vàng kỳ hạn 364 ngày, thay vì 1 năm là 365 ngày.

Đặc biệt gần đây lãi suất huy động vàng một số NHTM tiếp tục khá nóng, 2,7-3,2%/năm. Nếu tính luôn các chương trình khuyến mại, lãi suất chứng chỉ vàng lên đến 3,5-4%/năm.
Như vậy từ đầu tháng 11 đến nay các NH đã tăng lãi suất huy động vàng thêm 0,5-1,5%/năm so với trong tháng 10. Theo Thông tư 11 của NHNN, các NHTM huy động chứng chỉ vàng để giải quyết trạng thái vàng do lượng vàng đã cho vay chưa thu hồi hết. Siết mạnh trần lãi suất huy động VNĐ, trong khi các NHTM lại tăng lãi suất huy động vàng đã vô tình kích thích người dân đổ tiền mua vàng cuối năm, vừa đảm bảo đồng vốn không bị mất giá vừa hưởng lãi suất cao. Điều này đi ngược với mục tiêu hạn chế người dân đầu cơ và cất giữ vàng. Chưa kể, nếu các NHTM sử dụng vàng để xử lý thanh khoản có nguy cơ rủi ro nếu giá vàng thế giới biến động tăng cao.

Chuyên gia ĐINH THẾ HIỂN
Nhưng thực tế tại nhiều NHTM vàng đang là “cứu tinh” thanh khoản VNĐ. Theo đó, vay vốn VNĐ trên thị trường liên NH có vàng thế chấp, các NHTM nhỏ sẽ được vay 90-95% quy theo giá vàng tại thời điểm vay.
Nhiều NHTM tính toán chịu lãi suất vàng 3-4%/năm nhưng NHTM có thể chủ động giải quyết được thanh khoản trước mắt. Thậm chí, có NH nhỏ sẵn sàng bán đứt vàng huy động cho 7 NHTM được bán vàng bình ổn khi thiếu vốn tiền đồng.
Theo số liệu của NHNN chi nhánh TPHCM, tín dụng vàng tính đến cuối tháng 9-2011 hơn 800.000 lượng vàng, tương đương với dư nợ trên 35.000 tỷ đồng.
Trong khi số vốn vàng huy động cùng thời điểm này trên 96 tấn, tương đương 110.000 tỷ đồng. Điều này cho thấy ngoài vàng tồn quỹ (giữ hộ), với số vốn vàng huy động trên các NHTM đủ khả năng giải quyết thanh khoản tín dụng vàng từ nay đến tháng 5-2012.
Nhưng nhìn tổng thể từ các số liệu huy động vốn của cả hệ thống, có thể thấy sự chuyển dịch từ VNĐ sang USD và vàng khi trần lãi suất huy động VNĐ bị siết. Nguy cơ này có khả năng tiếp diễn đến cuối năm khi lãi suất vàng tăng nóng.
Hiện tại, NHNN vẫn chưa áp một mức trần nào với chứng chỉ huy động vàng ngắn hạn. Nhưng theo nguồn tin của ĐTTC, tới đây NHNN sẽ thanh tra những NHTM nào đẩy lãi suất huy động vàng lên quá nóng và bán vàng trái quy định.
Bởi theo quy định của NHNN, tín dụng vàng từ đầu năm đến nay ở các NHTM không được phát sinh mới mà chủ yếu là xử lý những khoản nợ cũ.
2. Vốn 'ngoại' lạnh nhạt với BĐS Việt Nam
Xếp cuối bảng trong thu hút đầu tư
Đói vốn do ngân hàng siết mạnh tín dụng đã trở thành nỗi ám ảnh lớn nhất của thị trường bất động sản (BĐS) năm 2011. Như là một hệ quả tất yếu của quãng thời gian tăng trưởng nóng, nặng tính đầu cơ, "ăn xổi", càng về các tháng cuối năm, khi nguồn tín dụng cho vay đối với BĐS càng cạn kiệt, cũng là lúc xuất hiện những câu chuyện chưa từng có tiền lệ.
Chưa đến mức có nhà buôn phải "nhảy lầu" như một dự báo đen tối, nhưng thị trường đã chứng kiến các vụ vỡ nợ hàng trăm tỷ đồng của nhiều đại gia buôn đất máu mặt tại Hà Nội; kết quả kinh doanh 9 tháng đầu năm bết bát, thua lỗ của hàng loạt tập đoàn, doanh nghiệp xây dựng, kinh doanh BĐS, rồi trào lưu bán tháo sản phẩm căn hộ để thu hồi vốn đáo hạn ngân hàng tại phía Nam.
Vai trò của một thị trường BĐS phát triển lành mạnh, bền vững có tác động đầu kéo quan trọng đối với cả nền kinh tế nên tìm vốn cho BĐS đã là chủ đề thu hút nhiều ý kiến, giải pháp. Khi mô hình các quỹ, các công cụ tài chính cho BĐS vẫn đang được tìm hướng khai thông thì trong tầm tay nhất, huy động vốn trong dân, huy động nguồn vốn nước ngoài ngay từ đầu đã được một số chuyên gia "mách nước".
Nếu như dòng tiền của các nhà đầu tư cá nhân vào BĐS đã khựng lại chờ đợi thì nguồn vốn đầu tư nước ngoài dành được nhiều kỳ vọng. Nhất là bối cảnh 3 năm sau khủng hoảng tài chính toàn cầu bùng phát ở Mỹ, kinh tế, đặc biệt là tại các thị trường mới nổi châu Á đã hồi phục và đi lên nhanh chóng, hoạt động đầu tư, tìm kiếm lợi nhuận từ BĐS ngoài lãnh thổ cũng gia tăng.
Giữa bối cảnh đó, một kết quả khảo sát tâm lý của các nhà đầu tư BĐS quốc tế do Colliers International công bố hồi tháng 10/2011 cho thấy, mặc dù các nhà đầu tư BĐS châu Á được xếp vào diện thận trọng nhất thế giới ở mức độ chấp nhận rủi ro, song phần lớn họ lại bày tỏ sự lạc quan khi rót tiền của mình vào BĐS. Bằng chứng là con số 65% nhà đầu tư châu Á khi được hỏi dự định sẽ mở rộng danh mục đầu tư BĐS trong 6 tháng tới.
Các phân khúc hấp dẫn nhất được đề cập, không thấy có BĐS Việt Nam. Theo ông Piers Brunner - một CEO của hãng tư vấn tiếp thị này, các nhà đầu tư châu Á ưu tiên hàng đầu đó là BĐS văn phòng tại Bắc Kinh và Thượng Hải, tiếp đó là BĐS nhà ở và văn phòng tại Ấn Độ. Đứng thứ ba là BĐS công nghiệp tại Singapore và Trung Quốc.
BĐS Việt Nam luôn được đánh giá là thị trường còn non trẻ khi quy mô nhỏ bé, tiềm năng phát triển dài hạn dồi dào nhưng vốn FDI từ đầu năm vào BĐS đã giảm mạnh nhất trong 5 năm trở lại đây và sự lạnh nhạt hiện tại của dòng vốn "nóng", nguyên nhân có phải xuất phát từ chính sự kém thu hút của thị trường BĐS?
Mất điểm về lợi nhuận
Nói về sức thu hút của thị trường BĐS Việt Nam qua con mắt các nhà đầu tư nước ngoài, ông Đ.V.Q - một nhà tư vấn chiến lược đầu tư có lần chia sẻ quan sát, câu đầu tiên mà nhiều đối tác nước ngoài quan tâm tìm hiểu trước khi đầu tư vào thị trường là làm thế nào để chuyển được tiền ra khỏi Việt Nam sau thời gian kinh doanh. Tiếp đó mới tính đến mức lãi bao nhiêu.
Tuy nhiên, đáp ứng được mức lãi kỳ vọng của các nhà đầu tư trong bối cảnh kinh tế khó khăn, lạm phát gia tăng, tụt hạng tín dụng và tín nhiệm quốc gia dẫn đến chi phí vốn vay gia tăng, quả là bài toán hóc búa.
Vị này dẫn giải, trước đây khi chưa xảy ra vụ đổ vỡ của Tập đoàn Vinashin, trái phiếu Chính phủ bán ra nước ngoài là 7,5%; cách đây không lâu ngành công nghiệp Than và Khoáng sản phát hành trái phiếu quốc tế dự kiến tăng chí phí vay vốn của doanh nghiệp lên con số 11,5%. Điều này có nghĩa là nhà đầu tư chỉ cần ngồi ở nước sở tại, bỏ tiền cho vay cũng đã được hưởng mức lãi trên.
Còn nếu đến Việt Nam đầu tư, lợi nhuận kỳ vọng của họ phải cao hơn nữa. Cụ thể, với lạm phát lên đến 20%/năm hiện nay, cùng với chi phí huy động vốn vay quốc tế là 11,5%, thì mức lãi tài chính đơn thuần sau thuế, chưa kể tài chính vận hành tối thiểu phải đạt 31,5%/năm.
"Cái gì đầu tư kinh doanh theo mô hình công ty mà có mức lãi như vậy? - Chưa kể, ngoài khoản tiền khi mang vào Việt Nam đầu tư, họ phải vay thêm vốn với lãi suất cao trên 20% và các chi phí ngầm khác. Đó là lý do chúng ta khó thu hút vốn đầu tư nước ngoài trong bối cảnh hiện nay" - ông Đ.V.Q phân tích.
Rủi ro cao
Không chỉ từ những yếu kém của nền kinh tế nói chung dẫn đến hạn chế trong việc thu hút dòng vốn nước ngoài, từ góc độ của một chuyên gia trong lĩnh vực đất đai, ông Đặng Hùng Võ cho rằng, nói đến đầu tư kinh doanh BĐS tức là nói đến việc đầu tư vào đất đai lâu dài.
Tuy nhiên do chính sách đất đai của chúng ta chưa rõ ràng, nhiều vấn đề quan trọng như giao đất, sử dụng lâu dài, chuyển nhượng đất ở của các nhà đầu tư bất động sản nước ngoài còn để ngỏ, hiện vẫn phải chờ kết quả sửa đổi Luật đất đai vào năm 2013 nên không tạo được động lực trong đầu tư.
Thêm vào đó, nguy cơ tham nhũng, khó khăn trong tiếp cận đất đai nhất là tại các đô thị lớn cũng khiến các nhà đầu tư dù rất muốn vào cũng phải trì hoãn, e ngại.
Bằng kinh nghiệm tư vấn, tiếp thị của mình, ông Richard Leech - Giám đốc điều hành của CBRE Việt Nam đã hơn một lần nhấn mạnh rằng, rào cản đối với các nhà đầu tư BĐS nước ngoài khi đến Việt Nam là: có được khu đất, vị trí tốt rất khó khăn.
Nhưng khi đã xác định được lô đất rồi thì các thủ tục hành chính, pháp lý, quy trình cũng rất gian lao vất vả, tốn nhiều thời gian như giải phóng mặt bằng, ra được giấy phép đầu tư, kinh doanh.
"Tất cả những điều đó chỉ có thể bù đắp được khi có một kỳ vọng rất cao là tỷ suất thu lợi trên đồng vốn đầu tư (ROI). Còn trường hợp chỉ số ROI đó không đủ cao và hấp dẫn thì đương nhiên họ sẽ tìm đến các thị trường dễ dàng hơn trong tiếp cận các dự án BĐS" - ông Rechard Leech nói.
Ghi nhận của giới tư vấn đầu tư cho thấy, một - hai tháng trở lại đây bắt đầu có một số tập đoàn, quỹ đầu tư của Mỹ và châu Á, bao gồm cả tên tuổi đáng chú ý, như JP Morgan Chase, đến Việt Nam để tìm hiểu cơ hội rót vốn, hợp tác kinh doanh, mua lại dự án. Nhưng động thái nói trên mới chỉ là bước đầu và cơ hội chỉ tập trung vào những dự án có tính pháp lý cao.
Nói như vậy cũng không nghĩa hết hy vọng. Đại diện của CBRE cho rằng, các nhà đầu tư BĐS nước ngoài mặc dù rất cẩn trọng với thị trường hiện tại nhưng những nhà đầu tư có chiến lược phát triển dài hạn tại Việt Nam thì vẫn không ngừng quan tâm đến những tiến triển của thị trường cũng như của nền kinh tế.
Đơn cử trong lĩnh vực mặt bằng bán lẻ hiện đại thì hiện ghi nhận rất nhiều nhà bán lẻ, đầu tư BDS nước ngoài có nhiều quan tâm, tò mò muốn biết tiềm năng phát triển của thị trường này.
Theo ông Rechard Leech, với sự tò mò tìm hiểu ấy, một số họ đang và sẽ tiến hành những hoạt động đầu tư không trực tiếp thông qua các quỹ của Việt Nam hoặc đầu tư qua kết hợp liên doanh với các đối tác trong nước. Sự tham gia của các nhà đầu tư nước ngoài cũng có thể từ bước bắt đầu phát triển của một dự án hay cũng có thể ở giai đoạn sau khi dự án đang triển khai.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Lưu ý: Chỉ thành viên của blog này mới được đăng nhận xét.